Thứ Hai, 25 tháng 11, 2019

Người Cơ Đốc có bốn con đường để vào nước thiên đàng qua danh Jesus Christ

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 7 năm 2014



1) Đường khởi đầu qua ngã Paradise tức ân điển nhưng không, tức là ăn trái cây sự sống trong vườn Ê-đen. ( Lu-ca 23: 43 ; Khải-huyền 2:7), số người này đã được lên thiên đàng lần thứ nhất vào ngày 26/12/2004 vừa qua

2) Đường thứ hai do sứ đồ Gia Cơ giới thiệu:  Gia-cơ 1:12
“12 Phước cho người bị cám dỗ; vì lúc đã chịu nổi sự thử thách rồi, thì sẽ lãnh mão triều thiên của sự sống mà Đức Chúa Trời đã hứa cho kẻ kính mến Ngài.”
Tức người đó làm mất  “ân điển nhưng không” nhưng vẫn là người Cơ Đốc vì tin Danh Jesus, và vượt qua thử thách khi sống trên đất này. “Êphêsô 1: 6-7
6 để khen ngợi sự vinh hiển của ân điển Ngài đã ban cho chúng ta cách nhưng không trong Con yêu dấu của Ngài !
7 Ấy là trong Đấng Christ, chúng ta được cứu chuộc bởi huyết Ngài, được tha tội, theo sự dư dật của ân điển Ngài,
Ê-phê-sô 2:8-10
8 Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời.
9 Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình;”
Nhóm người vì mất vé vào Ba-ra-đi tức cứ đọc bài cầu nguyện chung như con vẹt, nhưng đi nhà thờ chăm chỉ và đạo giòng hay dòng.
3) Đường thứ ba do Đấng Christ tỏ cho Giăng và do mất vé vào Paradise, không vượt qua thử thách khi sống trên đất và bị ma quỉ kiện cáo trước cửa Paradise và người đó vượt qua thử thách trong ngục của quỉ và được ban mũ triều thiên sự sống thay cho trái cây sự sống trong vườn Ê-đen
Nguyên nhân mất vé vào Paradise vì khi họ tin Jesus là Đấng Christ nhưng lại đọc bài Cầu nguyện chung ( Kinh lạy Cha ) mà không chịu từ bỏ việc đọc này, ít đi nhà thờ, học kinh thánh.
4) Đường thứ 4 giành cho các Cơ Đốc nhân đồng quản trị với Đấng Christ trong 1000 năm được ghi trong:
Khải Huyền 20: 4-6 Tôi lại thấy những ngai, và những người ngồi trên ngai được quyền xét đoán. Kế đó, tôi thấy linh hồn những kẻ đã phải chết chém vì sự làm chứng cho Đức Chúa Jêsus và vì lời Đức Chúa Trờilinh hồn những kẻ chẳng thờ lạy con thú cùng hình tượng nó, chẳng nhận dấu hiệu nó, hoặc trên trán hoặc trên tay. Các người ấy được sống và trị vì với Đấng Christ trong một ngàn năm.
5 Còn những kẻ chết khác chẳng được sống cho đến khi đủ một ngàn năm. Ấy là sự sống lại thứ nhứt.
6 Phước thay và thánh thay những kẻ được phần về sự sống lại thứ nhứt! Sự chết thứ nhì không có quyền gì trên những người ấy; song những người ấy sẽ làm thầy tế lễ của Đức Chúa Trời và của Đấng Christ, cùng sẽ trị vì với Ngài trong một ngàn năm.”

Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2019

Người Đứng đầu cơ quan hành pháp bị Sa-tan dụ

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 7 tháng 1 năm 2009


Sự kiện thuở xưa:
” 1 Vả, trong các loài thú đồng mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã làm nên, có con rắn là giống quỉ quyệt hơn hết. Rắn nói cùng người nữ rằng: Mà chi! Đức Chúa Trời há có phán dặn các ngươi không được phép ăn trái các cây trong vườn sao?
2 Người nữ đáp rằng: Chúng ta được ăn trái các cây trong vườn,
3 song về phần trái của cây mọc giữa vườn, Đức Chúa Trời có phán rằng: Hai ngươi chẳng nên ăn đến và cũng chẳng nên đá-động đến, e khi hai ngươi phải chết chăng.
4 Rắn bèn nói với người nữ rằng: Hai ngươi chẳng chết đâu;
5 nhưng Đức Chúa Trời biết rằng hễ ngày nào hai ngươi ăn trái cây đó, mắt mình mở ra, sẽ như Đức Chúa Trời, biết điều thiện và điều ác.
6 Người nữ thấy trái của cây đó bộ ăn ngon, lại đẹp mắt và quí vì để mở trí khôn, bèn hái ăn, rồi trao cho chồng đứng gần mình, chồng cũng ăn nữa.
7 Đoạn, mắt hai người đều mỡ ra, biết rằng mình lỏa lồ, bèn lấy lá cây vả đóng khố che thân.
8 Lối chiều, nghe tiếng Giê-hô-va Đức Chúa Trời đi ngang qua vườn, A-đam và vợ ẩn mình giữa bụi cây, để tránh mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời.
9 Giê-hô-va Đức Chúa Trời kêu A-đam mà phán hỏi rằng: Ngươi ở đâu?
10 A-đam thưa rằng: Tôi có nghe tiếng Chúa trong vườn, bèn sợ, bởi vì tôi lỏa lồ, nên đi ẩn mình.
11 Đức Chúa Trời phán hỏi: Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng mình lỏa lồ? Ngươi có ăn trái cây ta đã dặn không nên ăn đó chăng?
12 Thưa rằng: Người nữ mà Chúa đã để gần bên tôi cho tôi trái cây đó và tôi đã ăn rồi.
13 Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán hỏi người nữ rằng: Người có làm điều chi vậy? Người nữ thưa rằng: Con rắn dỗ dành tôi và tôi đã ăn rồi.
14 Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn phán cùng rắn rằng: Vì mầy đã làm điều như vậy, mầy sẽ bị rủa sả trong vòng các loài súc vật, các loài thú đồng, mầy sẽ bò bằng bụng và ăn bụi đất trọn cả đời.
15 Ta sẽ làm cho mầy cùng người nữ, dòng dõi mầy cùng dòng dõi người nữ nghịch thù nhau. Người sẽ giày đạp đầu mầy, còn mầy sẽ cắn gót chân người.
16 Ngài phán cùng người nữ rằng: Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con; sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi.
17 Ngài lại phán cùng A-đam rằng: Vì ngươi nghe theo lời vợ mà ăn trái cây ta đã dặn không nên ăn, vậy, đất sẽ bị rủa sả vì ngươi; trọn đời ngươi phải chịu khó nhọc mới có vật đất sanh ra mà ăn.
18 Đất sẽ sanh chông gai và cây tật lê, và ngươi sẽ ăn rau của đồng ruộng;
19 ngươi sẽ làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn, cho đến ngày nào ngươi trở về đất, là nơi mà có ngươi ra; vì ngươi là bụi, ngươi sẽ trở về bụi.
20 A-đam gọi vợ là Ê-va, vì là mẹ của cả loài người.
21 Giê-hô-va Đức Chúa Trời lấy da thú kết thành áo dài cho vợ chồng A-đam, và mặc lấy cho.
22 Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán rằng: Nầy, về sự phân biệt điều thiện và điều ác, loài người đã thành một bực như chúng ta; vậy bây giờ, ta hãy coi chừng, e loài người giơ tay khiến cũng hái trái cây sự sống mà ăn và được sống đời đời chăng.
23 Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn đuổi loài người ra khỏi vườn Ê-đen đặng cày cấy đất, là nơi có người ra.
24 Vậy, Ngài đuổi loài người ra khỏi vườn, rồi đặt tại phía đông vườn Ê-đen các thần chê-ru-bin với gươm lưỡi chói lòa, để giữ con đường đi đến cây sự sống.”
Thuở nay Sa-tan gieo ý tưởng vào các quân sư quạt mo cực lớn,
Luật giao thông đường bộ Việt Nam năm 2001 không chế tài người đi mô tô xe máy khi không đội mũ bảo hiểm.
Sa-tan nhập vào chóp bu nói rỉ bên tai người đứng đầu cơ quan hành pháp, luật pháp là ngài quyền lực trên đất nước này là ngài hãy chế tài cho mọi người biết ngài là pháp luật, ngài sẽ được mở mắt khi mọi người phải tuân theo ngài mọi kẻ khác sẽ tung hô ngài, Người đứng đầu cơ quan hành pháp giơ tay ký ban hành nghị định chế tài có hiệu lực ngày 15/12/2007.
Một năm sau Quốc hội ban hành luật sửa đồi bổ sung gọi là luật giao thông đường bộ Việt Nam 2008 có hiệu lực ngày 1/7/2009 mới quy định chế tài người đi mô tô xe máy khi không đội mũ bảo hiểm qua cụm từ bắt buộc.
Luật giao thông đường bộ 2001:
Điều 28. Người điều khiển, người ngồi trên xe mô-tô, xe gắn máy.
1. Người điều khiển xe mô-tô hai bánh, xe gắn máy chỉ được chở tối đa một người lớn và một trẻ em; trường hợp chở người bệnh đi cấp cứu hoặc áp giải người phạm tội thì được chở hai người lớn.
2. Việc đội mũ bảo hiểm đối với người điều khiển, người ngồi trên xe mô-tô hai bánh, xe mô-tô ba bánh, xe gắn máy do Chính phủ quy định.
3. Cấm người đang điều khiển xe mô-tô hai bánh, xe mô-tô ba bánh, xe gắn máy có các hành vi sau đây:
a) Đi xe dàn hàng ngang;
b) Đi xe lạng lách, đánh võng;
c) Đi xe vào phần đường dành cho người đi bộ và phương tiện khác;
d) Sử dụng ô, điện thoại di động;
đ) Sử dụng xe để kéo, đẩy các xe khác, vật khác, mang, vác và chở vật cồng kềnh;
e) Buông cả hai tay hoặc đi xe bằng một bánh đối với xe hai bánh, bằng hai bánh đối với xe ba bánh;
g) Sử dụng xe không có bộ phận giảm thanh và làm ô nhiễm môi trường;
h) Các hành vi khác gây mất trật tự, an toàn giao thông.
4. Cấm người ngồi trên xe mô-tô hai bánh, xe mô-tô ba bánh, xe gắn máy có các hành vi sau đây:
a) Mang, vác vật cồng kềnh;
b) Sử dụng ô;
c) Bám, kéo hoặc đẩy các phương tiện khác;
d) Đứng trên yên, giá đèo hàng hoặc ngồi trên tay lái;
đ) Các hành vi khác gây mất trật tự, an toàn giao thông”
2. Việc đội mũ bảo hiểm đối với người điều khiển, người ngồi trên xe mô-tô hai bánh, xe mô-tô ba bánh, xe gắn máy do Chính phủ quy định.
Nhưng không quy định cấm và bắt buộc nên chính phủ không được chế tài tức phạt
Luật sửa đổi 2008 có từ phải
Điều 30. Người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy
1. Người điều khiển xe mô tô hai bánh, xe gắn máy chỉ được chở một người, trừ những trường hợp sau thì được chở tối đa hai người:
a) Chở người bệnh đi cấp cứu;
b) Áp giải người có hành vi vi phạm pháp luật;
c) Trẻ em dưới 14 tuổi.
2. Người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy phải đội mũ bảo hiểm có cài quai đúng quy cách.

Thể chế nhà nước Việt Nam ngày nay đã có hơn nửa thế kỷ cũng như luật pháp, luật pháp có những ranh giới mà kẻ bên này bước qua kẻ kia cũng không thể được dù cho ấy là việc tốt, khi chưa có luật pháp thì mọi người cứ làm theo ý mình tưởng là phải.

Lời thề máu với Con Thiên Chúa được ứng nghiệm

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 24 tháng 8 năm 2009


Lời thề xưa: “ Hết thảy dân chúng đều đáp rằng: Xin huyết người lại đổ trên chúng tôi và con cái chúng tôi! “
“22 Phi-lát nói rằng: Vậy, còn Jêsus gọi là Christ, thì ta sẽ xử thế nào? Chúng đều trả lời rằng: Đóng đinh nó trên cây thập tự!
23 Quan hỏi: Song người nầy đã làm việc dữ gì? chúng lại kêu la lớn hơn rằng: Đóng đinh nó trên cây thập tự!
24 Phi-lát thấy mình không thắng nổi chi hết, mà sự ồn ào càng thêm, thì lấy nước rửa tay trước mặt thiên hạ, mà nói rằng: Ta không có tội về huyết của người nầy; điều đó mặc kệ các ngươi.
25 Hết thảy dân chúng đều đáp rằng: Xin huyết người lại đổ trên chúng tôi và con cái chúng tôi!
26 Phi-lát bèn tha tên Ba-ra-ba cho chúng; và khiến đánh đòn Đức Chúa Jêsus, đoạn giao Ngài ra để đóng đinh trên cây thập tự.
—————————–
“25 Hết thảy dân chúng đều đáp rằng: Xin huyết người lại đổ trên chúng tôi và con cái chúng tôi!”Huyết vô tội của Chúa “đổ trên chúng tôi ” tức những kẻ giết Chúa vào năm 70 của thế kỷ đầu tiên tức sau sự kiện giết Chúa khoảng 40 năm, khi người La-mã san bằng đền thờ của người Israel trong Jerusalem và phanh thây nhà nước Israel gần 20 thế kỷ cho đến 1948.
Huyết vô tội của Chúa “đổ trên con cái chúng tôi” vào thời Hitle diệt chủng khoảng 6 triệu dân Israel từ năm 1939 cho đến năm 1945.

Đây cũng là lời cảnh báo với mọi người chớ nên thề độc
Người Israel đã phải trả bằng máu, máu họ đổ ra khắp châu Âu và Địa trung hải khi lời thề trả xong thì họ mới có được quốc gia như ngày nay kể từ năm 1948.

Khủng long và nguyên nhân bị mất chân theo Kinh Thánh.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 2 tháng 6 năm 2007



Về thời gian lời trong Kinh thánh cho biết như sau: “1 Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất. 2 Vả, đất là vô hình và trống không, sự mờ tối ở trên mặt vực; Thần Đức Chúa Trời vận hành trên mặt nước. 3 Đức Chúa Trời phán rằng: Phải có sự sáng; thì có sự sáng. 4 Đức Chúa Trời thấy sự sáng là tốt lành, bèn phân sáng ra cùng tối. 5 Đức Chúa Trời đặt tên sự sáng là ngày; sự tối là đêm. Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ nhứt. 6 Đức Chúa Trời lại phán rằng: Phải có một khoảng không ở giữa nước đặng phân rẽ nước cách với nước. 7 Ngài làm nên khoảng không, phân rẽ nước ở dưới khoảng không cách với nước ở trên khoảng không; thì có như vậy. 8 Đức Chúa Trời đặt tên khoảng không là trời. Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ nhì. 9 Đức Chúa Trời lại phán rằng: Những nước ở dưới trời phải tụ lại một nơi, và phải có chỗ khô cạn bày ra; thì có như vậy. 10 Đức Chúa Trời đặt tên chỗ khô cạn là đất, còn nơi nước tụ lại là biển. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành. 11 Đức Chúa Trời lại phán rằng: Đất phải sanh cây cỏ; cỏ kết hột giống, cây trái kết quả, tùy theo loại mà có hột giống trong mình trên đất; thì có như vậy. 12 Đất sanh cây cỏ: cỏ kết hột tùy theo loại, cây kết quả có hột trong mình, tùy theo loại. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành. 13 Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ ba. 14 Đức Chúa Trời lại phán rằng: Phải có các vì sáng trong khoảng không trên trời, đặng phân ra ngày với đêm, và dùng làm dấu để định thì tiết, ngày và năm; 15 lại dùng làm vì sáng trong khoảng không trên trời để soi xuống đất; thì có như vậy. 16 Đức Chúa Trời làm nên hai vì sáng lớn; vì lớn hơn để cai trị ban ngày, vì nhỏ hơn để cai trị ban đêm; Ngài cũng làm các ngôi sao. 17 Đức Chúa Trời đặt các vì đó trong khoảng không trên trời, đặng soi sáng đất, 18 đặng cai trị ban ngày và ban đêm, đặng phân ra sự sáng với sự tối. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành. 19 Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ tư. 20 Đức Chúa Trời lại phán rằng: Nước phải sanh các vật sống cho nhiều, và các loài chim phải bay trên mặt đất trong khoảng không trên trời. 21 Đức Chúa Trời dựng nên các loài cá lớn, các vật sống hay động nhờ nước mà sanh nhiều ra, tùy theo loại, và các loài chim hay bay, tùy theo loại. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành. 22 Đức Chúa Trời ban phước cho các loài đó mà phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy dưới biển; còn các loài chim hãy sanh sản trên đất cho nhiều. 23 Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ năm. 24 Đức Chúa Trời lại phán rằng: Đất phải sanh các vật sống tùy theo loại, tức súc vật, côn trùng, và thú rừng, đều tùy theo loại; thì có như vậy. 25 Đức Chúa Trời làm nên các loài thú rừng tùy theo loại, súc vật tùy theo loại, và các côn trùng trên đất tùy theo loại, Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành. 26 Đức Chúa Trời phán rằng: Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta và theo tượng ta, đặng quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất, và khắp cả đất. 27 Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ. 28 Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất; hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời cùng các vật sống hành động trên mặt đất. 29 Đức Chúa Trời lại phán rằng: Nầy, ta sẽ ban cho các ngươi mọi thứ cỏ kết hột mọc khắp mặt đất, và các loài cây sanh quả có hột giống; ấy sẽ là đồ ăn cho các ngươi. 30 Còn các loài thú ngoài đồng, các loài chim trên trời, và các động vật khác trên mặt đất, phàm giống nào có sự sống thì ta ban cho mọi thứ cỏ xanh đặng dùng làm đồ ăn; thì có như vậy. 31 Đức Chúa Trời thấy các việc Ngài đã làm thật rất tốt lành. Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ sáu.”
Như vậy ngày thứ tư trở về trước sự sáng xuống quả đất này là gì thì chúng ta không biết, do đó không thể tính được thời gian như ngày nay tức 1 ngày = 24 giờ, nhưng kể từ ngày thứ năm trở đi thì mặt trăng và mặt trời đã có cùng các ngôi sao và bắt đầu họat động, như vậy từ ngày thứ năm trong sách Sáng Thế Ký cho đến ngày thời nay = nhau, tức 1 ngày = 24 giờ , Cây cỏ nói chung là hệ thực vật được dựng nên ngày thứ ba tức trước cả các tinh tú trên bầu trời, Ngày thứ năm : Nước phải sanh các vật sống cho nhiều, và các loài chim phải bay trên mặt đất trong khoảng không trên trời. Ngày thứ sáu : “Đức Chúa Trời lại phán rằng: Đất phải sanh các vật sống tùy theo loại, tức súc vật, côn trùng, và thú rừng, đều tùy theo loại; thì có như vậy…” Tức có cả khủng long và lòai người nữa cùng có chung một ngày sinh nhật tức thứ sáu, và lời tiên tri với lòai khủng long như sau :Vì mầy đã làm điều như vậy, mầy sẽ bị rủa sả trong vòng các loài súc vật, các loài thú đồng, mầy sẽ bò bằng bụng và ăn bụi đất trọn cả đời. Vậy chúng thuộc lòai thú đồng. Kinh thánh không gọi chúng là khủng long , khủng long là từ riêng của tiếng Việt, trong Khảỉ-huyền gọi chúng là con rồng, con rắn xưa, vậy khủng long chính là hình ảnh con rắn xưa, và con rồng là biểu tượng cuả quyền lực mà dân đông phương tôn sùng nên gọi là long, trong đó người Việt đặt tên cho thủ đô của mình với một tên trân trọng là Thăng Long tức rồng bay lên, vịnh Hạ Long tức rồng giáng xuống Tương tự người Mỹ chọn biểu tượng quyền lực là chim ó, hay các dân khác chọn sư tử, vv Vậy nguyên nhân khủng long bị tuyệt chủng về hình dáng là Satan đã nhập vào chúng để dụ lòai người nên chúng bị vạ lây.. [[1]] Như vậy loài khủng long xuất hiện cách nay không quá 6000 năm và bị tuyệt chủng về hình dáng không quá 4500 năm tức trong sự kiện nước lụt thời Nô-ê trong Kinh thánh còn người Việt gọi là truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh. Chứng cứ : hình ảnh hóa đá ở hang đầu gỗ và hang sửng sốt.
Vậy nó thuộc lòai thú chớ không phải bò sát còn bò sát là sau khi bị biến dạng như ngày nay tức là lòai rắn, rắn có nhiều họ hàng từ khổng lồ đến nhỏ bé, lòai to có thể nuốt chửng lòai thú lớn ngày nay, bọn ngu si nói vượn là tổ tiên mình, ngày nay có thấy con vượn nào gần thành người đâu, vậy chẳng có sự tiến hóa nào hết vì mọi loài từ khi có trên đất này cho tới nay vẫn như vậy, có chăng sự tiến hóa là lòai lăn oăn thành muỗi có cánh, nòng nọc thành cóc nhái, sâu bọ thành bướm, sư kiện Việt trên 2000 năm đã gọi là truyền thuyết rồi huống chi nói về việc hàng triệu năm chỉ là ảo.
Các nhà khoa học nói truyền thuyết Việt ( từ trên 2000 năm đến 6000 năm trước) là sự tưởng tượng và họ thì đại tưởng tượng hơn, vì nói về sự kiện hàng trăm triệu năm vậy mà mọi người tin ào ào lại lôi kéo được một số người nhạo bán về truyền thuyết của dân tộc Việt tôn sự đại bịp lên cao.
———————————————–
RẮN XƯA CÓ CHÂNa / Rắn xưa có chân và bị mất chân cách nay khoảng 6000 năm do bị Đức Chúa Trời rủa xả(Sáng 3: 14)
b / Hình ảnh rắn xưa chính là hình ảnh con rồng ngày nay (Khải 12: 9), gần đây các nhà khảo cổ học đă tìm thấy bộ xương rắn hóa thạch tại khu vực trung đông và rắn có bốn chân.
c / Các khoa học gia vừa phát hiện những hóa thạch của loài sinh vật kỳ quái nhất từ trước tới nay: Một con rắn bay sống vào thời khủng long có khả năng bắt cá bằng chiếc mỏ giống như một cây kéo. Đây là loài bò sát có cánh họ hàng chú bác với khủng long gọi là Pterosaur (
theo Reuters)

Phần diển giải:
Khi Sa tan chưa nhập vào loài rắn để dụ lòai người không nghe lời Đức Chúa Trời, thì loài rắn được Kinh thánh xếp vào lọai thú đồng
Sáng-thế Ký 3:0-1
“1 Vả, trong các loài thú đồng mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã làm nên, có con rắn là giống quỉ quyệt hơn hết. Rắn nói cùng người nữ rằng: Mà chi! Đức Chúa Trời há có phán dặn các ngươi không được phép ăn trái các cây trong vườn sao?”
Sau khi Sa tan nhập vào loài rắn để dụ lòai người không nghe lời Đức Chúa Trời thành công, thì Đức Chúa Trời hạ lòai rắn xuống thành lòai côn trùng bò bằng bụng giống như ngày nay, dù họ hàng lòai côn trùng này có thể nuốt chửng lòai súc vật, thú đồng vv

Sáng-thế Ký 3:14-15

“Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn phán cùng rắn rằng: Vì mầy đã làm điều như vậy, mầy sẽ bị rủa sả trong vòng các loài súc vật, các loài thú đồng, mầy sẽ bò bằng bụng và ăn bụi đất trọn cả đời.15 Ta sẽ làm cho mầy cùng người nữ, dòng dõi mầy cùng dòng dõi người nữ nghịch thù nhau. Người sẽ giày đạp đầu mầy, còn mầy sẽ cắn gót chân người.”
———————————————–
Dòng dõi khủng long tấn công dòng dõi người nữ


Dòng dõi người nữ phản công



Sáng-thế Ký 8:18-20
18 Vậy, Nô-ê cùng vợ người, các con trai và các dâu người ra khỏi tàu.
19 Các thú, rắn, chim cùng mọi vật hành động trên mặt đất tùy theo giống đều ra khỏi tàu.

Lê-vi Ký 11:42

42 Vậy, không nên ăn thịt các loài côn trùng đi bò trên mặt đất, là con nào bò bằng bụng, con nào đi bốn cẳng hay là đi nhiều cẳng, vì chúng nó là một sự gớm ghiếc.
Khám phá ngày nay về rắn có chân
Tại sao rắn không có chân?
13/02/2011 16:58
Rắn cổ đại từng có chân – Ảnh: AFP
Rắn từng có chân đầy đủ như bao loài khác, nhưng bộ phận này biến mất dần vì không thích hợp với môi trường sống.
Nếu không phải tất cả thì ít nhất một số loài rắn cũng từng có chân trong buổi ban đầu của quá trình tiến hóa. Tuy nhiên, chúng đã mất dần các chi theo thời gian, theo báo cáo mới đây của Viện Bảo tàng lịch sử tự nhiên quốc gia tại Paris (Pháp). Nghiên cứu này đã củng cố lý thuyết cho rằng loài rắn tiến hóa từ một dạng thằn lằn từng sống chui rúc trong hang trên đất liền hoặc bơi lội dưới biển, theo thông tin trên chuyên san Journal of  Vertebrate Paleontology.
Để rút ra kết luận trên, Trưởng nhóm nghiên cứu Alexandra Houssaye và đồng sự đã phân tích hóa thạch của loài rắn có tên Eupodophis descouensi. Loài rắn tiền sử này từng xuất hiện trong Kỷ Phấn trắng tại khu vực hiện nay là Lebanon. Nhằm hiểu rõ hơn mẫu vật đặc biệt, các nhà khoa học sử dụng phương pháp mô phỏng mới gọi là chụp cắt lớp trên máy tính bằng tia bức xạ synchrotron (SRCL). Đây là phương pháp giúp chụp được hàng ngàn hình ảnh 2 chiều từ bên trong mẫu. Những hình ảnh đó được tiếp tục dựng thành mô hình 3 chiều, cho thấy rõ hông của rắn và cặp chân nhỏ chỉ dài 2 cm.
Với mô hình 3 chiều mới, các chuyên gia phát hiện được Eupodophis từng sở hữu 2 chân sau mang theo dấu hiệu thoái hóa dần và không có chi trước. Chi sau cũng có đầu gối và 4 xương mắt cá chân, nhưng không có xương bàn chân hoặc xương ngón. Cũng nhờ SRCL, họ xác định được xương chân của rắn rất giống với thằn lằn hiện đại.
Nhà khoa học Houssaye cho rằng rắn đã rụng hết chân để phù hợp với cảnh chui rúc trong hang sâu hoặc bơi lội dưới đại dương. Bằng chứng là cặp chân trong mẫu hóa thạch bị thoái hóa rất nghiêm trọng và các hậu duệ của chúng chẳng còn cái chân nào. Eupodophis cũng chưa phải là loài rắn cổ nhất thế giới. “Loài rắn cổ nhất từng được con người phát hiện có niên đại cách đây từ 112 đến 94 triệu năm, và con rắn này sống cách đây khoảng 90 triệu năm”, Houssaye cho biết. Najash rionegrina, một loài rắn cũng sống cùng thời kỳ với Eupodophis được cho là có 2 chân nhỏ đằng sau. Najash đã được các chuyên gia Đại học Sao Paulo (Brazil) phát hiện tại tỉnh Rio Negro thuộc Argentina.
Hạo Nhiên
Ngày 6/2/2013
Lời tiên tri này chưa ứng nghiệm “và ăn bụi đất trọn cả đời.” và khi Sa-tan bị nhốt lại 1000 năm tức khi bảy ấn của Chiên Con kết thúc thì rắn mới ăn bụi đất trọn cả đời.